Thành tựu văn học Thôi_Trí_Viễn

Số bài thơ hiện còn của Thôi Trí Viễn bao gồm 60 bài từ Quế uyển bút canh tập (桂苑筆耕集), 30 bài từ Đông văn tuyển (東文選), cùng hơn chục bài thơ nguyên vẹn và khá nhiều bài thơ chỉ còn sót lại vài câu rời rạc được chép tại trong Toàn Đường thi (全唐詩) hoặc những tài liệu lịch sử, bia ký và di tích khác. Thơ ca của ông có thể được chia thành 5 loại theo nội dung: Loại thứ nhất là những bài thơ trữ tình bày tỏ nỗi lòng nhớ quê hương khi đi du học nhà Đường, ví dụ như Đêm thu trong mưa, Sơn dương dữ hương hữu thoại biệt, Đông phong, Trần tình thượng thái úy. Loại thứ hai là thơ phê bình hiện thực, tỉ như Giang nam nữ, Cổ ý, Ngụ hưng, Thục quỳ hoa. Loại thứ ba là thơ tả phong cảnh, ví dụ Thạch phong, Triều lãng, Sa đinh, Dã thiêu, Đỗ quyên, Hải âu, Sơn đỉnh nguy thạch, Thạch thượng ải tùng, Hồng diệp thụ, Thạch thượng lưu tuyền gồm 10 bài, cùng Dụ Giang dịch tuyết, Đề Già Da sơn, Nhập sơn thi và Tặng Trí Quang Thượng nhân. Loại thứ tư Thất ngôn kỷ đức thi tam thập thủ cẩn hiến ti đồ tương công, Thù tiến sĩ Điền Thành nghĩa huynh tặng, Thù Ngô tiến sĩ loan quy Giang Nam, Thù Ngô Loan tú tài tích biệt nhị tuyệt cú, Thù Dương Chiêm tú tài tống biệt. Loại thứ năm là thơ miêu tả vũ điệu dân gian Tân La, tỉ như Hương nhạc tạp vịnh, Kim hoàn, Nguyệt điên. Các thể thơ mà Thôi Trí Viễn sử dụng cũng rất đa dạng, bao gồm tuyệt cú, luật thi cũng như cổ thể thi, nhưng chiếm số lượng nhiều nhất là tuyệt cú và luật thi bảy chữ. Những bài thơ của ông được thể hiện một cách tự nhiên dựa trên thực tế cuộc sống. Ông cho rằng một thi nhân không nên quá tự do tưởng tượng. Trong thư gửi Cao bí thư, ông đã dẫn hai câu thơ của Lý Bạch trong bài "Giang thượng ngâm" (江上吟) là "Hứng say, bút chuyển núi cao; Thơ xong, cười cợt rạt rào bãi sông"[lower-alpha 5] và cho rằng đây chỉ là "những lời nói phóng đại và phi lý".[18][19][20]

Trong khoảng thời gian 16 năm sinh sống tại Trung Quốc, Thôi Trí Viễn đã sáng tác trên dưới một vạn thiên tác phẩm, trong đó chỉ có 300 tác phẩm là thơ, số còn lại đa phần là văn xuôivăn ứng dụng. Văn nhân Cao Ly Chu Thận trong tác phẩm Du thanh lương sơn lục đã gọi Thôi Trí Viễn là ông tổ của "nền văn học phương Đông".[lower-alpha 6] Trong những năm đầu của vương triều Triều Tiên, văn nhân Thành Khiếm (成伣) từng nói rằng "Văn chương nước ta, cũng từ Thôi Trí Viễn mà ra." Các tác phẩm văn xuôi cùng văn ứng dụng của Thôi Trí Viễn phần lớn là biền thể văn.[lower-alpha 7] Biền thể văn là một loại văn thể từng thịnh hành ở Giang Nam vào thời Lục triều, trở thành thể thức công văn chính thức của triều đình dưới thời nhà Đường. Tập văn xuôi còn tồn tại Quế uyển bút canh tập của Thôi Trí Viễn chứa phấn lớn công văn hành chính biền thể tứ lệ lục. Văn xuôi của ông phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại và có thành tựu nghệ thuật cao. Khi Hoàng Sào khởi nghĩa, Thôi Trí Viễn phụng chỉ thảo một bức "Hịch Hoàng Sào thư" với mục đích khiển trách và thuyết phục Hoàng Sào, được đánh giá là một "kiệt tác của nghệ thuật hùng biện và văn phong".[7] Theo sách Cô vân tiên sinh di sự, Hoàng Sào đã ngã lăn ra giường khi đọc được câu "không chỉ người trong thiên hạ đều muốn giết ngươi mà ngay cả quỷ thần dưới đất cũng bàn cách để diệt ngươi".[21][20]

Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:

Vào năm 882, Thôi Trí Viễn khi còn dưới trướng ở Cao Biền đã viết sách "Bổ An Nam lục dị đồ ký" (補安南錄異圖記). Cuốn sách viết về các vấn đề lịch sử, địa lý, phong tục ở An Nam đô hộ phủ, là một trong những tài liệu sớm nhất của Triều Tiên nói về Việt Nam.[22]